17/10/2023
7,630 lượt đọc
Nhân sự kiện việc Giao dịch tự động bị Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) tuýt còi, chúng ra sẽ đi tìm hiểu chi tiết nhưng cũng rất ngắn gọn về các loại Giao dịch tự động trên thị trường nhé. Chắc chắn mọi người cũng đã dùng qua mà không biết đấy.
Nghe từ “tự động” là mọi người đủ hiểu rồi nên mình bỏ qua định nghĩa dài dòng nhé.
Để hiểu rõ hơn thì có thể phân loại Giao dịch đặt lệnh tự động thành 2 nhóm
Loại này lại được chia ra thành 2 loại chính nhỏ hơn: Nhóm thuật toán Tìm kiếm lợi nhuận (Profit-Seeking Algorithm) và nhóm thuật toán Thực thi (Execution Algorithm)
Cái Tìm kiếm lợi nhuận sẽ có các điều kiện để trả lời cho câu hỏi mua/bán chứng khoán nào, thời điểm nào, số lượng bao nhiêu để đạt mục tiêu tối ưu lợi nhuận. Ví dụ: cổ phiếu HPG, khi chỉ số RSI quá bán sẽ mua 3,000,000 cổ, giá trong vùng 20-22.
Khi các điều kiện được thỏa mãn thì cái Thực thi sẽ đi lệnh với mục tiêu khớp được giá đúng yêu cầu nhất (hạn chế trượt hoặc lệch quá nhiều so với giá mục tiêu). Ví dụ, bạn cần mua 3,000,000 cổ phiếu HPG nhưng không muốn đẩy giá cổ phiếu lên cao bất thường, khi đó bạn sử dụng thuật toán POV (phần trăm theo khối lượng - là 1 loại thuật toán Thực thi), thực hiện giao dịch với tỷ lệ tham gia là 10%. Nghĩa là cứ mỗi 1000 cổ phiếu HPG giao dịch trên thị trường thì POV giúp bạn mua vào 100 cổ, cho đến khi đủ số lượng 3,000,000 cổ như bạn yêu cầu. Nhờ đó giá sẽ không bị đẩy lên cao bất thường.
Xếp theo mức độ tác động thì Giao dịch bán tự động sẽ tác động sẽ tác động ít nhất lên hệ thống, vì giao dịch sẽ chỉ thực hiện 1 lần cho mỗi thiết lập bạn đặt nên không phát sinh quá nhiều lệnh. Còn nhóm Giao dịch tự động sẽ gây nhiều tác động lên hệ thống giao dịch hơn.
Cụ thể, nhóm thuật toán Tìm kiếm lợi nhuận có thể bao gồm giao dịch tần suất cao (HFT) để tạo ra nhiều lệnh mua/bán, ước tính 95% các nhà giao dịch thuật toán trên TTCK Việt Nam dùng cách này thông qua AmiBroker. Nhóm thuật toán Thực thi phổ biến như TWAP, VWAP hay POV thì ít tác động hơn vì có tần suất vào lệnh thấp. Tuy nhiên vẫn có những thuật toán Thực thi ít phổ biến hơn nhưng có khả năng gây nghẽn lệnh, cụ thể như thuật toán thực thi tàng hình “Steath” cho phép chia nhiều lệnh nhỏ và có khả năng gửi hàng ngàn lệnh mỗi giây.
Vẫn là bạn muốn mua 3,000,000 cổ phiếu HPG và sử dụng thuật toán Steath để thực hiện thông qua việc chia lệnh đến mức nhỏ nhất là 100 cổ phiếu/lệnh thì ngay lập tức nó sẽ gửi đi 30,000 lệnh độc lập. Vào những lúc thị trường biến động nhanh, chỉ cần 10 nhà đầu tư tương tự cùng tham gia rất có thể sẽ gây ra tình trạng nghẽn lệnh hoặc bất ổn diện rộng trên toàn thị trường như đã diễn ra trước đây trong thời kỳ Covid. Giải pháp đơn giản cho hình thức chẻ lệnh là đảm bảo đơn vị chẻ lệnh nhỏ nhất là 10.000 cổ phiếu.
Lãnh đạo UBCKNN khẳng định: “Các giải pháp dịch vụ, sản phẩm mới luôn được khuyến khích nhưng phải phù hợp với điều kiện thực tiễn, quan trọng hơn hết là phải vì mục tiêu chung của thị trường và lợi ích của đại đa số các chủ thể tham gia thị trường”. Do đó có thể hiểu việc cấm hiện tại là mục tiêu ngắn hạn để tránh quá tải cho hệ thống giao dịch hiện tại (trong lúc chờ KRX), còn mục tiêu dài hạn thì chắc chắn Giao dịch tự động sẽ là xu hướng vì những lợi ích mà nó mang lại để tối ưu hóa lợi nhuận, công sức, cũng như tăng thanh khoản thị trường.
0 / 5
Bạn có bao giờ tự hỏi vì sao người ta không chỉ quan tâm “lỗ bao nhiêu phần trăm” mà còn phải lo “lỗ mất bao lâu”? Thị trường lên xuống không ngừng, khoảng thời gian mất mát vốn cũng mang ý nghĩa không kém phần quan trọng. Đó chính là lúc khái niệm Drawdown Duration trở nên phổ biến
Trong ngôn ngữ định lượng, alpha là phần lợi nhuận vượt chuẩn (benchmark-adjusted return), tức lợi nhuận mà nhà đầu tư tạo ra ngoài những gì có thể lý giải bằng yếu tố thị trường chung (beta).
Trong lĩnh vực Quantitative Trading (giao dịch định lượng), Z-Test không chỉ là công cụ thống kê lý thuyết, mà còn là phương pháp đánh giá hiệu quả chiến lược, kiểm tra giả thuyết về lợi suất và rủi ro danh mục. Thông qua Z-Test, các quants có thể so sánh lợi suất thực tế của chiến lược với mức kỳ vọng, phân tích biến động và xác định xem các tín hiệu giao dịch có khác biệt đáng kể so với thị trường hay chỉ là biến động ngẫu nhiên.
Trong quantitative trading (giao dịch định lượng), khái niệm correlation (tương quan) đóng vai trò nền tảng trong việc phân tích dữ liệu tài chính. Trên thực tế, mọi quyết định giao dịch định lượng đều dựa vào khả năng định lượng mối quan hệ giữa các biến số tài chính, và correlation là thước đo chính xác nhất để làm điều này.
Trong thị trường tài chính hiện nay, tin tức và thông tin về thị trường có thể tác động mạnh mẽ đến sự biến động của giá cả cổ phiếu, chỉ số chứng khoán, hoặc các tài sản khác. Tuy nhiên, một trong những thách thức lớn mà các nhà đầu tư và trader phải đối mặt là việc xử lý một khối lượng lớn thông tin không cấu trúc từ nhiều nguồn khác nhau, chẳng hạn như từ các trang tin tức, mạng xã hội, hay báo cáo kinh tế. Làm thế nào để phân tích chính xác và nhanh chóng những tin tức này để đưa ra quyết định đầu tư hiệu quả? Câu trả lời nằm trong công nghệ Machine Readable News – một công cụ mạnh mẽ giúp khai thác và phân tích tin tức từ nguồn dữ liệu khổng lồ một cách nhanh chóng và hiệu quả.
Trong quá trình theo dõi thị trường tài chính, đặc biệt là chứng khoán, nhà đầu tư thường bị cuốn vào những biến động ngắn hạn: một cú giảm sâu trong ngày, một tuần đỏ lửa liên tiếp, hay một tin tức bất lợi lan truyền trên báo chí và mạng xã hội. Điều này hoàn toàn dễ hiểu, vì con người thường bị chi phối mạnh mẽ bởi tâm lý mất mát (loss aversion) – tức là nỗi đau khi mất một khoản tiền thường lớn gấp đôi niềm vui khi thu được khoản lợi nhuận tương ứng.
Được nghiên cứu và phát triển bởi các chuyên gia từ QMTrade và cộng đồng nhà đầu tư chuyên nghiệp.
Truy cập ngay!